Mô tả Khổng miếu, Khúc Phụ

Quần thể là một trong những đền đài lớn nhất tại Trung Quốc. Nó có diện tích lên tới 16.000 mét vuông bao gồm 460 phòng. Bởi vì thiết kế lại gần đây nhất là sau đám cháy 1499, ngay sau khi Tử Cấm Thành được xây dựng dưới thời nhà Minh nên kiến trúc của ngôi miếu giống với Tử Cấm Thành theo nhiều phương diện.

Phần chính của ngôi miếu gồm 9 sân được bố trí theo trục bắc nam dài 1,3 km. Ba sân đầu tiên có cửa nhỏ và được trồng cây thông cao. Cổng đầu tiên ở phía nam được gọi là Linh Tinh môn (棂星门). Các tòa nhà bao quanh các sân tạo thành trung tâm của quần thể. Đây là cấu trúc ấn tượng với ngói màu vàng (được dành riêng cho Hoàng đế) và các bức tường sơn đỏ. Bao quanh là những cây thông xanh tạo ra sự tương phản mạnh mẽ.

Các cấu trúc chính của ngôi miếu gồm:

  • Linh Tinh môn (棂星门)
  • Thánh Thời môn (圣时门)
  • Hoằng Đạo môn (弘道门)
  • Đại Trung môn (大中门)
  • Thập Tam bi đình (十三碑亭)
  • Đại Thành môn (大成门)
  • Khuê Văn Các (xây dựng năm 1018, trùng tu năm 1504 và 1985)
  • Hạnh Đàn (đàn cúng tế với nền mai rùa)
  • Lưỡng Vũ
  • Đại Thành điện (大成殿, được xây dựng dưới thời nhà Thanh)
  • Tẩm điện (寝殿)

Trong đó, Đại Thành điện là trung tâm của quần thể. Nó có diện tích 54*34 mét với nền đế cao 32 mét. Được hỗ trợ bởi 28 cột trụ bằng đá địa phương được trạm khắc và trang trí vô cùng phong phú cao 6 mét và đường kính 0,8 mét. Trong số đó, 10 cột trụ ở phía trước được trang trí bằng hình rồng cuộn. Đây là nơi thờ cúng chính để tưởng nhớ tới Khổng Tử và được cho là một trong những nơi đẹp nhất của ngôi miếu.

Hạnh Đàn.

Ở trung tâm sân trước của Đại Thành điện là Hạnh đàn (杏坛). Nó được xây dựng nhằm tưởng nhớ việc Khổng Tử đã dạy các học trò của mình dưới một cây mơ. Mỗi năm tại Khúc Phụ và nhiều miếu thờ Nho giáo khác, một buổi lễ trang trọng được tổ chức vào ngày 28 tháng 9 để kỷ niệm ngày sinh của Khổng Tử.

Một số lượng lớn các bia đá nằm trong khuôn viên của ngôi miếu.[2] Một cuốn sách về Nho học thì tại ngôi miếu có 500 bia đá và tượng đài.[3] Trên các bia đá chứa các văn bản ngợi ca Khổng Tử cùng các sắc lệnh của Hoàng đế ban danh hiệu danh dự cho ông. Mặc dù hầu hết đều liên quan đến Khổng Tử nhưng một số đã được chuyển tới các ngôi miếu khác ở Khúc Phụ để lưu giữ.[4] Các chữ khắc trên bia đá chủ yếu là tiếng Hán nhưng một số có niên đại dưới thời nhà Nguyên và Thanh sử dụng tiếng Trung Mông Cổtiếng Mãn. Các bia đá quan trọng nhất tập trung tại khu vực gọi là Thập Tam bi đình (十三碑亭) bao gồm 13 bia đá sắp xếp thành hai hàng trong một khoảng sân hẹp giữa một sảnh nhỏ và Đại Thành môn.

Hàng bia rùa phía bắc bao gồm 5 sảnh nhỏ, mỗi sảnh là một bia đá lớn được mang bởi một con rùa đá khổng lồ. Chúng được đặt dưới thời trị vì của các hoàng đế Khang Hy, Ung Chính, Càn Long của Nhà Thanh (từ năm 1683-1748). Những bia đá này có chiều cao từ 3,8 đến 4 mét đặt trên những con rùa dài đến 4,8 mét và tổng cộng chúng nặng đến 65 tấn.[5] Dãy phía nam bao gồm 8 sảnh nhỏ, mỗi sảnh có một vài bia đá nhỏ hơn. Bốn trong số chúng có niên đại từ thời nhà Kim và Mông Nguyên trong khi những cái còn lại có từ thời nhà Thanh.[6] Ngoài ra cũng có một số bia đá nhỏ hơn không có đế đá nằm ở xung quanh Thập Tam bi đình.[7]